GEN KHUYẾT TẬT LIÊN QUAN ĐẾN CƠN ĐAU THẮT LƯNG
(Gene flaw linked to low back pain)
Lynn Ly phỏng dịch thông tin từ báo BBC
(http://www.bbc.co.uk/news/health-19674045)
Theo Báo BBC , 21 /09/ 2012 Các nhà khoa học đã xác định một loại khuyết tật gen có liên quan đến những vấn đề của đĩa đệm cột sống là một nguyên nhân phổ biến của đau vùng dưới thắt lưng (low back pain).
Nghiên cứu của Anh Quốc, được công bố trong sách Niêm Giám Những Bệnh Thấp Khớp (the Annals of Rheumatic Diseases), đã quan sát 4.600 người và tìm thấy gen PARK2 có liên quan đến những vấn đề đĩa đệm cột sống do tuổi tác .
A third of middle-aged women have problems with at least one spinal disc - and the condition is known to be inherited in up to 80% of patients.
Một phần ba trong tổng số phụ nữ trung niên có vấn đề vế đĩa đệm cột sống ít nhất một và tình trạng được biết đến là được di truyền thì lên 80% trong số người bệnh.
Các chuyên gia cho biết việc phát hiện loại gen nay có thể dẫn đến các phương pháp điều trị mới mà đang được tiến hành thực hiện.
Chứng bệnh đau lưng làm Anh Quốc phí tổn 7 tỷ Euros hằng năm vì chi phí nghỉ việc do bệnh và chi phí điều trị, nhưng những nguyên nhân của tình trạng này không được hiểu thật trọn vẹn .
Ở chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (Lumbar Disc Degeneration = LDD), đĩa đệm cột sống bị mất nước và mất đi bề dày, và các đốt sống (vertebrae) bên cạnh chúng phát triển tăng trưởng xương được gọi là osteophytes, dẫn đến đau vùng dưới thắt lưng .
Những nhà nghiên cứu của trường cao đẳng King tại London (The King's College London)đã tiến hành Chụp Hình Cộng Hưởng Từ Trường (MRI scans) tất cả những người trong cuộc nghiên cứu này và quan sát sự khác biệt trong sự thành lập di truyền của chúng.
Họ phát hiện ra các biến thể (variants) của gen PARK2 xuất hiện có hiệu lực ở những người bị thoái hóa đĩa đệm và sự ảnh hưởng đến tốc độ mà tình trạng của họ bị xấu đi.
NHỮNG TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNGCác nhà nghiên cứu, được tài trợ bởi Wellcome Trust và Arthritis Research của Anh Quốc, nói rằng hiện nay cần có thêm nhiều nghiên cứu nữa để tìm hiểu làm thế nào gen ảnh hưởng đến tình trạng chứng bệnh.
Nhưng họ đề nghị là có thể làm ngừng hoạt động của gen này ở những người bị chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng (LDD).
Và họ nói rằng chứng thoái hóa đĩa điệm cột sống vùng thắt lưng có thể là yếu tố môi trường - chẳng hạn như chế độ ăn uống và lối sống có thể tạo ra những gì đã được biết như là những biến đổi biểu sinh ( epigenetic changes) đối với gen.
Các nhà nghiên cứu nói rằng một khi cơ chế được hiểu rõ tường tận, phát hiện của họ có thể dẫn đến việc tiến hành những phương pháp điều trị mới cho chứng bệnh đau dưới thắt lưng.
Tiến sĩ Frances Williams, thuộc bộ phận nghiên cứu song sinh và dịch tễ học di truyền (genetic epidemiology) tại trường Cao đẳng King tại London, ông đã làm việc về nghiên cứu này, cho biết: "Chúng tôi biết rằng những người bị mòn đĩa đệm cột sống là có nguy cơ gia tăng từng phần về chứng đau dưới thắt lưng, nhưng những đĩa đệm cốt sống của người bình thường thì rất khó để có được để nghiên cứu như vậy cho đến bây giờ kiến thức của chúng ta về sinh học của con người bình thường dã không đầy đủ.
"Công việc trong tương lai của các nhà nghiên cứu đĩa đệm để xác định vai trò của gen PARK2 sẽ phải thực hiện, chúng tôi hy vọng sẽ làm sáng tỏ một trong hầu hết các nguyên nhân quan trọng của chứng đau vùng dưới thắt lưng.
"Đúng là khả thi nếu chúng ta có thể xây dựng trên những phát hiện này và nâng cao kiến thức của chúng ta về tình trạng đau lưng, chúng ta một ngày có thể có phát triển mới, phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho bệnh đau lưng gây ra bởi tình trạng phổ biến này".
Giáo sư Alan Silman, giám đốc y tế tại Arthritis Research của Anh Quốc , cho biết: "Chứng thoái hóa đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng là một nguyên nhân phổ biến của đau dưới thắt lưng, và nó đang được biết có tới 80% các trường hợp là do cơ sở di truyền, nhưng đây là những thời điểm đầu của một gen vừa được xác định là có liên quan đến cơn đau thường xuyên và tình trạng bị vô hiệu hóa.
"Đúng là một khởi đầu đầy hứa hẹn và cung cấp cho chúng ta với các đầu mối đầu tiên về căn bản di truyền của tình trạng này, và với nghiên cứu sâu xa hơn, có khả năng có thể dẫn đến sự phát triển về việc điều trị hiệu quả hơn".
Lynn Ly (21/09/2012)